Hãy rộng lòng với lòng trắc ẩn: Khi bị lạm dụng, nó có thể mang sắc thái ban ơn hoặc đơn thuần là một sự khuây khỏa ích kỷ. Nhưng nếu được đặt đúng chỗ, đó lại là một đức hạnh có thể xoa dịu và an ủi con người.
Tôi chưa từng làm một cuộc khảo sát chính thức, nhưng cảm nhận của tôi là đa số mọi người có những suy nghĩ khá mâu thuẫn về lòng trắc ẩn. Khi gắn nó với lòng từ bi, chúng ta xem đó là điều tốt đẹp và lắc đầu chán ngán trước những kẻ lạnh lùng đến vô cảm, những người có thể thản nhiên bước qua một bà cụ co ro trong chăn áo giữa đêm đông buốt giá ở Minnesota mà chẳng mảy may động lòng. Nhưng mặt khác, hẳn ai cũng có chút chạnh lòng khi nghĩ đến việc trở thành đối tượng của lòng thương hại, và không ít người khinh miệt những kẻ cứ mãi chìm đắm trong cảm giác tự thương hại chính mình mà không tìm cách vươn lên.
Các triết gia cũng có những quan điểm trái chiều về giá trị của lòng trắc ẩn. Nhưng dù có thừa nhận những hình thái tiêu cực của cảm xúc này, tôi vẫn muốn khơi gợi một chút suy tư nơi những người theo đuổi triết lý khắc kỷ, những người chưa từng dành một lời dịu dàng nào cho nó.
Hãy lấy Friedrich Nietzsche làm ví dụ. Tôi luôn đánh giá cao quan điểm độc đáo của ông về tầm quan trọng của sự nhẹ nhàng, của tinh thần hăng hái, dĩ nhiên, không phải kiểu vui vẻ gượng gạo mà ta thường thấy ở những nhân viên phục vụ trong nhà hàng. Thế nhưng, tôi không khỏi cau mày trước những lời lẽ cay nghiệt mà ông dành cho lòng trắc ẩn.
Nietzsche để lại vô số câu chữ gay gắt về chủ đề này, nhưng hãy thử nhìn vào một trích đoạn trong tác phẩm Kẻ phản Kitô (1895):
“Lòng trắc ẩn bảo vệ những thứ vốn dĩ đã đến hồi suy tàn, nó níu giữ những gì đã bị cuộc đời ruồng bỏ, và chính nó lại khiến cuộc đời mang màu sắc ảm đạm, bi thương bằng cách duy trì sự tồn tại của vô số kẻ thất bại dưới muôn hình vạn trạng. Người ta dám gọi lòng trắc ẩn là một đức hạnh… Thậm chí còn tôn nó lên thành đức hạnh cao quý nhất, cội nguồn của mọi đức hạnh… Nhưng lòng trắc ẩn thực chất là sự phủ định của sự sống, là thứ khiến cuộc đời trở nên vô nghĩa… Đó là cách chủ nghĩa hư vô len lỏi vào tâm hồn con người… Lòng trắc ẩn chỉ kéo con người về phía hư vô!”
Trước khi vội kết luận rằng Nietzsche là kẻ nhẫn tâm, hãy nhớ rằng ông cũng từng ngợi ca lòng thiện chí, không phải theo kiểu lý trí khô khan của Kant, mà là một thứ tình cảm chân thành, một sự nồng hậu xuất phát từ nội lực và sự tự tin, thứ chỉ có được khi con người vượt qua những đau khổ tôi luyện họ trở nên mạnh mẽ hơn. Triết lý của ông có thể gói gọn trong một câu nói nổi tiếng: “Những gì không giết chết ta sẽ khiến ta mạnh mẽ hơn.”
Ngược lại, theo Nietzsche, những ai quá yếu đuối, không đủ sức chịu đựng khổ đau chỉ còn một vũ khí duy nhất, khả năng khơi gợi lòng thương hại từ người khác. Trong cuốn Con người, quá đỗi con người(1878), ông viết:
“Dù có yếu đuối đến đâu, họ vẫn có một quyền lực: quyền lực làm tổn thương người khác. Khi những biểu hiện của lòng trắc ẩn khiến kẻ bất hạnh nhận ra rằng mình vẫn có thể khơi dậy cảm giác ưu việt nơi kẻ khác, họ sẽ cảm thấy khoái trá. Hình ảnh về bản thân họ được hồi sinh, ít nhất, họ vẫn còn đủ quan trọng để gây ra nỗi đau cho thế giới này.”
Nietzsche nhìn thấy trong lòng trắc ẩn một hình thức quyền lực, một công cụ mà kẻ yếu sử dụng để níu kéo sự chú ý và làm lung lay tinh thần của những kẻ mạnh hơn. Với ông, lòng trắc ẩn không phải là sự cứu rỗi, mà là một thứ xiềng xích níu giữ nhân loại trong sự yếu hèn và suy tàn.
Nietzsche không phải là triết gia duy nhất tỏ thái độ khinh miệt với lòng trắc ẩn, nhất là với sự tự thương hại, điều mà ông cho là đáng trách hơn cả. Nhà duy lý bậc thầy Baruch Spinoza từng viết trong Đạo đức học (1677): “Một người sống theo lý trí sẽ cố gắng, trong khả năng có thể, không để lòng trắc ẩn chi phối mình.” Nhiều triết gia khác, kể cả Plato, cũng tin rằng nỗi xót xa dành cho người khác chỉ khiến ta yếu mềm, và họ không ngần ngại cười cợt lòng trắc ẩn như thể trở thành kẻ đáng thương là số phận tệ hại nhất trên đời.
Thực chất, danh tiếng mờ nhạt của lòng trắc ẩn phần lớn là phản chiếu của cái tôi quá phình to của con người, bởi cảm giác thương hại thường đi kèm với một thái độ kẻ cả, bề trên. Vài ngày trước, khi dừng xe chờ đèn đỏ, tôi thấy một người đàn ông trung niên rách rưới, tập tễnh bước tới, trên tay là tấm bìa các-tông với dòng chữ nguệch ngoạc: “Tôi là cựu binh. Tôi đói. Xin hãy giúp tôi.” Tôi thấy thương cảm cho ông ta, nhưng đồng thời cũng thoáng dấy lên cái ý nghĩ giả tạo, đầy ban ơn vẫn thường núp dưới câu nói: “Nếu không nhờ ơn trời, có khi kẻ khốn khổ kia chính là ta.”
Nietzsche và Sigmund Freud đều cho rằng con người là những sinh vật sống trong mớ cảm xúc mâu thuẫn. Thực tế, với Freud, một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đời sống tinh thần là khả năng chịu đựng những cảm xúc nhập nhằng, không rạch ròi. Cảm xúc không thể được phân loại một cách khách quan như những vật thể ngoài đời. Dù nhiều học giả Nietzsche đã cố gắng phân biệt lòng trắc ẩn với sự thương hại, nhưng thế giới nội tâm của chúng ta không bao giờ rõ ràng như sự khác biệt giữa một cái bàn và một cái ghế. Cảm xúc thuần khiết, không pha trộn, hiếm khi xuất hiện trong đời sống con người.
Tôi biết Nietzsche và nhiều người khác không đồng ý, nhưng tôi vẫn do dự khi phải khẳng định rằng một ai đó không còn là con người nếu họ có thể nhìn vào những thảm kịch đẫm máu của lịch sử mà không một chút xót xa. Thực ra, chẳng cần nhìn đến lịch sử nhân loại, chỉ cần một câu chuyện cá nhân cũng đủ để lay động lòng người.
Cách đây vài năm, tôi dạy một sinh viên 20 tuổi, người đã mất cả cha lẫn mẹ chỉ trong vòng một năm vì hai căn bệnh khác nhau. Em ấy thường lặng lẽ ngồi ở góc cuối giảng đường, khuôn mặt mang vẻ u sầu của một hiệp sĩ lạc lối. Những bài tập bị bỏ lỡ là cái cớ để tôi kéo em vào văn phòng trò chuyện. Mất một lúc, em mới kể cho tôi nghe bi kịch của mình. Và tôi, không thể nào ngăn mình lắc đầu, khẽ thốt lên: “Tôi rất tiếc.” Đúng vậy, tôi thương xót em ấy, và tôi sẽ lo lắng cho chính mình nếu tôi không có cảm giác đó.
David Hume hẳn sẽ đồng tình rằng khả năng đồng cảm một chiều, dù ta có gọi nó là lòng trắc ẩn hay thương hại, là một trong những sợi dây gắn kết con người. Nietzsche nói đúng ở một điểm: có những kẻ lợi dụng lòng thương xót của người khác như một thứ vũ khí. Đôi khi, lòng trắc ẩn cũng là vỏ bọc của sự kiêu ngạo.
Nhưng tôi cũng không thể ca ngợi một thứ lòng trắc ẩn không đủ mạnh để thúc đẩy hành động. Nhà văn Mỹ Richard Wright từng viết trong tiểu thuyết Native Son (1940) rằng lòng thương xót có thể trở thành một sự an ủi giả tạo, khiến ta tự huyễn hoặc rằng “chỉ cần xót thương, ta đã làm được điều gì đó để sửa sai cho bất công trên đời.” Khi ta để lòng trắc ẩn ru ngủ, khi ta nghĩ rằng chỉ cần nhỏ một giọt nước mắt là ta đã hoàn thành bổn phận, thì chính nó lại trở thành một cái bẫy. Nhưng suy cho cùng, bất cứ cảm xúc nào, thậm chí bất cứ đức hạnh nào, cũng có thể bị bóp méo và biến dạng.
Triết gia Søren Kierkegaard từng nói rằng ta nên đối xử với chính mình như đối xử với người hàng xóm. Nếu ta có thể cảm thông cho những người mắc kẹt trong vòng xoáy bi kịch của số phận, thì việc ta thương xót chính mình trong những lúc khốn cùng cũng là điều hợp lý. Nietzsche, nếu cập nhật tư tưởng theo thời đại (dù có thể ông sẽ rất phẫn nộ khi nghe điều này), hẳn sẽ phải thừa nhận rằng ngày nay, khả năng chấp nhận sự mong manh của bản thân đã trở thành một đức hạnh quan trọng. Trong bối cảnh ấy, việc gồng mình chịu đựng, che giấu mọi tổn thương không phải là biểu hiện của sức mạnh, mà ngược lại, nó có thể là một dấu hiệu của sự yếu đuối.
Quay lại với câu chuyện của chính mình, gia đình tôi lúc này đang đối diện với một căn bệnh nghiêm trọng. Có những giờ, những ngày, tôi chìm trong cảm giác tuyệt vọng và thương xót, vừa cho người thân đang chịu đựng cơn đau, vừa cho chính mình, kẻ phải ngồi bên cạnh mà không thể làm gì, thậm chí chẳng thể tìm cách đánh lạc hướng nỗi buồn.
Trải nghiệm này, một cách nào đó, cũng mang theo chút ích kỷ. Tôi giận dữ khi con quái vật này đột nhiên lao vào cuộc đời mình, phá vỡ những kế hoạch hậu nghỉ hưu mà tôi từng mong chờ. Lắm lúc, có người vỗ về tôi bằng câu an ủi quen thuộc: “Có thể còn tệ hơn cơ mà.” Về lời khuyên ấy, Arthur Schopenhauer đã nói hộ tôi: “Sự an ủi hiệu quả nhất trong mọi bất hạnh là nhìn vào những người còn khốn khổ hơn mình… Nhưng nếu ai cũng dựa vào điều đó mà tự vỗ về, thì rốt cuộc, tình cảnh chung của cả nhân loại sẽ ra sao?” Thế nên, vâng, “Khổ thân tôi quá!”
Dĩ nhiên, nếu tôi để nỗi tự thương hại nhấn chìm mình đến mức không thể vươn qua nỗi đau để mang lại sự vỗ về cho người khác, thì lúc ấy, nó không còn là một cảm xúc đơn thuần nữa mà đã trở thành một thói xấu. Nhưng ngay cả khi mặt đất dưới chân ta bất chợt sụp xuống, ta vẫn nên cho phép mình, và cả những người xung quanh, được quyền kéo chăn trùm kín đầu mà thở dài. Biết đâu, những ai không dám cho phép mình gục xuống trong nỗi buồn nặng trĩu, cũng sẽ khó lòng dang tay ôm lấy một người khác khi họ đang đau đớn.
Đừng nhầm lẫn, sẽ có những khoảnh khắc trong đời, khi ta rơi vào tận cùng của tuyệt vọng, ta cũng mong được vỗ về, được chở che, được ai đó thương xót và chăm sóc. Từ bao đời nay, những lời cuối cùng của những người lính ngã xuống trên chiến trường vẫn thường là tiếng kêu yếu ớt như trẻ thơ: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” Chính câu nói ấy cũng đã thoát ra từ đôi môi George Floyd, khi sự sống đang dần bị bóp nghẹt khỏi anh trên đường phố Minneapolis năm ngoái.
Tôi không còn nhớ vào năm 1980, chúng tôi đang tranh luận về lý thuyết nào, nhưng triết gia Stephen Toulmin đã nói với tôi: “Việc một thứ bị lạm dụng không có nghĩa là ta nên phủ nhận giá trị của nó.” Và cũng như vậy, sự tồn tại của những hình thức thương hại méo mó không có nghĩa là ta nên chối bỏ bản chất nhân văn của lòng trắc ẩn.
Nguồn: Pity is an emotion easy to scorn but central to our humanity | Psyche.co
https://www.facebook.com/photo/?fbid=810253634973029&set=a.179626711369061






