- Ý niệm về cuộc chiến giàu – nghèo qua hình tượng Robin Hood và Spartacus
- Xã hội càng phát triển thì càng xuất hiện nhiều giai cấp, không chỉ riêng gì giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
- Những diễn giải sai về Marx về khả năng sáng tạo của người nghèo, mối quan hệ giữa mâu thuẫn cá nhân và mâu thuẫn giai cấp và việc áp dụng logic biện chứng khi tiếp cận giai cấp
- Những đóng góp của Polanyi trong việc bổ sung các động cơ thúc đẩy hành động của con người.
- Chưa thể khẳng định xã hội mà chúng ta đang tồn tại là tốt nhất.
Một trong những định kiến sai lầm thâm căn cố đế và phổ biến nhất khi nói về “giàu”, “nghèo”, “tư sản”, “vô sản” là người ta thường biến chúng thành hình ảnh dưới dạng cá thể: tư sản là những ông chủ giàu có, người nghèo là người có ít tiền (và có những đặc điểm của người ít tiền)… chẳng hạn vậy.
Do đó, trong phần lớn thời gian, nhiều thành viên đại chúng ở cả hai phe đều chỉ ra sức bảo vệ và phản đối các người rơm chính mình dựng nên, thay vì bàn luận chính xác về chủ đề giàu-nghèo và giai cấp đã được các triết gia gợi lên trong quá khứ. Một số người nghĩ rằng mình đang bảo vệ cho phe yếu thế, một số người khác cho rằng người giàu có chẳng có gì xấu để đổ lỗi cho họ. Vấn đề nằm ở chỗ, khi bàn luận về câu chuyện giai cấp, người ta không đổ lỗi cho các cá nhân cụ thể nào, lại càng không đổ lỗi cho “người giàu”. Vì vậy, cuộc tranh cãi xoay quanh việc tìm xem lỗi thuộc về phe nào quá sức vô nghĩa.
Làm sao để biết chính xác như thế nào là “tư bản”? Việc cụ thể hóa ý niệm trừu tượng thành vật hữu hình, một cách vô ý hoặc cố ý (thường là vô ý), như tự vẽ ra trong đầu một hình khối gọi là “tư bản”, sẽ ngăn cản bạn tìm hiểu về chủ đề này. Tương tự, việc vội vã tự dựng trong đầu mình ý niệm giản đơn về “người nghèo” và “tầng lớp tinh hoa” thông qua các định kiến xã hội, cũng sẽ khiến bạn tiếp cận mọi thứ sai ngay từ đầu, từ đó tự ngăn cản việc tiếp thu tri thức một cách hiệu quả.
1. Editor’s note: một số lưu ý trước khi bắt đầu bài viết.
Trong bài viết này, tác giả sẽ dẫn lại quan điểm của Marx và Engels, trích dẫn tài liệu gốc và có những diễn giải rốt ráo để giúp người đọc nắm được cách giải thích của họ về hiện tượng giàu-nghèo trong xã hội con người. Để có thể dễ dàng tiếp nhận bài viết, bạn cần sẵn sàng với kiến thức mới mẻ về mối quan hệ giữa ý tưởng, ngôn từ đối với thế giới thực.
Với những độc giả đã có kiến thức cơ bản về vấn đề, bài viết cũng giúp ích khi đề cập đến những sai lầm phổ biến trong việc tiếp thu lý luận của Marx-Engels, cũng như chỉ ra những biến thể sai lầm của nó phát sinh từ lý thuyết gốc – đánh giá đúng/sai ở đây dựa trên góc nhìn từ phía Marxism.
Bài viết đại diện cho quan điểm của một trường phái (trường phái mạnh nhất khi bàn luận về vấn đề giai cấp), không nhất thiết phản ánh chân lý phổ quát. Nó có thể phản ánh sự thật, nhưng chúng tôi không nhất thiết kết luận rằng đây sự thật chắc chắn và hoàn toàn là chân lý.
2. “Phần lớn” thế giới của ngày hôm qua trong nhận thức của ta được tạo dựng bởi ai.
Khi nói về giàu-nghèo, phổ biến nhất là ý niệm về cuộc chiến của hai phe, thường là một cách ngấm ngầm, thông qua hàng loạt câu chuyện nổi tiếng. Spartacus, Robin Hood là kiểu mẫu anh hùng đứng về người nghèo được ưa thích. Câu chuyện của họ, ở thời đại của họ, cho độc giả thấy rằng vấn đề giàu-nghèo là phổ quát và xuyên suốt trong lịch sử, cũng như ở thời đại nào người ta cũng có xu hướng đề cao các vị anh hùng vì người nghèo. Motif này nhân rộng và tương đối phổ biến, ở Á Đông có thể kể đến Lưu Bang, Lê Lợi, Chu Nguyên Chương.
Nhưng, liệu có đúng là những câu chuyện này được lưu truyền bởi người nghèo, cũng như phản ánh tư tưởng của số đông trong quá khứ?
Hãy bằng đầu bằng một đoạn của Marx [1] :
“… Một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất mà các nhà triết học phải đối mặt, đó là phải hạ mình từ thế giới tư tưởng xuống thế giới hiện thực. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Cũng như các nhà triết học đã cho tư duy (ý nghĩ) thành một hiện hữu độc lập, họ tất phải khiến cả ngôn ngữ cũng thành một vương quốc độc lập, đặc thù. Đây chính là bí mật của ‘ngôn ngữ triết học’, trong lối ngôn ngữ này tư tưởng (những ý nghĩ) có nội dung riêng của nó, dưới dạng thức là những từ ngữ. Nhiệm vụ khó khăn từ thế giới tư tưởng (những ý nghĩ) hạ xuống thế giới hiện thực biến thành nhiệm vụ khó khăn từ ngôn ngữ hạ xuống cuộc sống.
Chúng ta đã chỉ ra rằng việc tách tư tưởng (ý nghĩ) và quan niệm thành những hiện hữu độc lập là kết quả của việc tách riêng những quan hệ tư nhân và những liên hệ giữa những cá nhân. Chúng ta đã chỉ ra rằng việc các nhà hệ tư tưởng và các nhà triết học tiến hành nghiên cứu những tư tưởng ấy một cách chuyên môn và có hệ thống cũng tức là việc hệ thống hóa những tư tưởng ấy, là kết quả của phân công lao động, và nói riêng, triết học Đức là kết quả của những quan hệ tiểu tư sản Đức. Các nhà triết học chỉ cần đem ngôn ngữ của họ trở lại ngôn ngữ thông thường mà từ đó nó đã được trừu tượng ra, thì có thể nhận thấy rằng ngôn ngữ của họ là ngôn ngữ bị xuyên tạc của thế giới hiện thực và có thể hiểu được rằng cả tư tưởng lẫn ngôn ngữ tự chúng đều không tạo thành cho mình cái vương quốc đặc thù, rằng chúng chỉ là biểu hiện của đời sống hiện thực.
Sancho lặn lội lên thác xuống ghềnh theo các nhà triết học, tất nhiên không thể không tìm Hòn Đá Triết Học, phép cầu phương và thuốc trường sinh, không thể không tìm ‘Từ Ngữ’ (ngôi lời) mà tự thân nó có một sức mạnh kỳ diệu có thể từ vương quốc của ngôn ngữ và tư duy chuyển qua đời sống hiện thực. Do giao tiếp lâu năm với Don Quixote, Sancho tiêm nhiễm Don Quixote quá sâu sắc đến nỗi không nhận thấy ‘Nhiệm Vụ’ ấy của ông ta, ‘Sứ Mệnh’ ấy của ông ta chẳng qua chỉ là kết quả của niềm tin của ông ta vào những pho tiểu thuyết hiệp sĩ triết học nặng trịch…”
[xem Marx, K. & Engels, F. (1986), tr. 614-615]
“… Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần (trí thức) thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu (phương tiện) sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu (phương tiện) sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người thiếu mất tư liệu (phương tiện) sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối. Những tư tưởng thống trị không phải là cái gì khác hơn ngoài sự biểu hiện lý tưởng của những quan hệ vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu hiện dưới dạng thức tư tưởng; do đó, chúng là sự biểu hiện của chính ngay những quan hệ làm cho một giai cấp trở thành giai cấp thống trị; do đó, chúng là những tư tưởng của sự thống trị giai cấp ấy. Ngoài ra, những cá nhân hợp thành giai cấp thống trị cũng chiếm hữu một ý thức và do đó, họ tư duy; chừng nào họ thống trị với tư cách là giai cấp và quyết định quy mô và phạm vi của một thời đại lịch sử thì dĩ nhiên đó là bằng chứng rằng họ thống trị trong mọi lãnh vực, cho nên ngoài ra, họ cũng thống trị với tư cách là những người đang tư duy, là những người sản xuất ra tư tưởng, điều tiết sự sản xuất và sự phân phối những tư tưởng của thời đại họ; bởi vậy, những tư tưởng của họ là tư tưởng thống trị của thời đại. Ví dụ, vào một thời kì và ở một nước mà thế lực của vua chúa, giai cấp quý tộc và giai cấp tư sản tranh nhau quyền thống trị, mà do đó quyền thống trị bị phân chia thì học thuyết phân quyền tỏ ra là tư tưởng thống trị, nó được người ta coi là ‘quy luật vĩnh cửu’. …”
[xem Marx, K., & Engels, F. (1986), tr. 75]
Hai trích đoạn này giúp chúng ta những gì với vấn đề đặt ra ở đầu mục 2? Liệu những gì Marx phát biểu có thể giúp chúng ta hiểu thêm điều gì về Robin Hood?
Đầu tiên, nếu bạn thực sự nghiêm túc tìm hiểu về Robin Hood và Spartacus, bạn sẽ biết rằng họ là nhân vật hư cấu, hoặc là hình ảnh hư cấu được tạo nên từ hình tượng có thực chẳng liên quan. Như Spartacus không có chút ý niệm gì về cải cách chính trị La Mã, cũng như không hề có ý định đánh đổ chế độ nô lệ. Trên thực tế, ở thời cổ đại, Spartacus không phải biểu tượng; tương tự, thời Trung Cổ chẳng người bình dân nào xem Robin Hood là biểu tượng của sự phản kháng và đứng về phía người nghèo. Toàn bộ những thông tin cơ bản này rất dễ để truy cập chỉ bằng một vài thao tác tìm kiếm.
Cho đến tận thế kỷ XVIII, XIX, hai nhân vật này mới bắt đầu trở thành biểu tượng trong văn chương và văn hóa bình dân. Công bằng mà nói, cũng phải đến đoạn thời gian này, tầng lớp bình dân mới bắt đầu tiếp cận với văn hóa phẩm dạng sách vở một cách phổ biến, bên cạnh những hình thức văn hóa dân gian.
Chúng ta sẽ quay trở lại với vấn đề này sau, nhưng có một vấn đề song song khác (liên quan một cách trực tiếp), là có rất nhiều người diễn giải sai hai trích dẫn bên trên. Diễn giải sai cơ bản nhất, là cho rằng Marx đã nói người nghèo không có ý tưởng sáng tạo, tầng lớp tinh hoa là nhóm sáng tạo chủ yếu còn người nghèo chỉ hưởng thụ chúng một cách thụ động – sự sai lệch này đã gây nhiều tai hại.
Marx chỉ nói giai cấp thống trị phương tiện sản xuất vật chất thì cũng thống trị phương tiện sản xuất tinh thần, hay văn hóa phẩm nói chung. Mặc dù thống trị, nhưng sự sáng tạo chủ động (active creativity) không phải không thuộc về người trí thức. Nhưng người trí thức này, theo ý kiến của tôi, luôn luôn thuộc ‘sở hữu’ (property) của những tầng lớp thượng lưu (ít ra là đúng với thế giới trước thế kỷ 19). Nghĩa là, họ vẫn sở hữu sản phẩm do mình tạo ra, nhưng họ lại thuộc sở hữu bởi các tầng lớp cao hơn, do đó gây hiểu nhầm là giới thượng lưu sở hữu toàn bộ mọi thứ. Giống như khi nhìn về thời Phục Hưng chúng ta sẽ nhìn thấy rất nhiều tranh chân dung, do các họa sĩ được giới thượng lưu trả tiền để vẽ, và tranh chân dung lúc bấy giờ là một mốt để biểu thị quyền lực. Hay khi nhìn về Ai Cập cổ đại, Hy Lạp cổ đại, ta sẽ thấy những biểu tượng văn hóa lớn như các tòa lâu đài, thành quách, kim tự tháp… đều là sản phẩm đại diện cho mong muốn của giới nắm quyền, bất kể rằng chúng được thiết kế bởi các kỹ sư và xây dựng bởi nô lệ. Trước thế kỷ XVIII, vì máy in công nghiệp chưa phổ biến, nên việc ghi chép sử sách cũng được thực hiện bởi trí thức, và bảo hộ bởi nhóm có tiền. Do vậy, Robin Hood hay Spartacus như ghi chép chính thống không giống với tinh thần bình dân và phản ánh góc nhìn của giai cấp thống trị là điều dễ hiểu. Chúng ta cũng có fine dining, âm nhạc cổ điển, trang phục dạ hội, thiết kế nội thất cổ điển… hầu như những văn hóa phẩm được giới tinh hoa phát triển đều được lưu giữ rất bền và lâu, còn văn hóa dân gian luôn mấp mé ở bờ vực bị pha trộn, xóa sổ.
Thực tế không phải là: người nghèo không sáng tạo đối nghịch với người giàu sáng tạo. Chính xác là người giàu muốn thụ hưởng văn hóa phẩm buộc phải hỗ trợ và bảo trợ sự sáng tạo chủ động từ các ‘nhà sáng tạo’ (miracle-workers), và người nghèo thụ động hưởng thụ văn hóa phẩm đó rót từ trên xuống chứ không tham gia chủ động vào đóng góp cho ‘nguồn lực nuôi dưỡng các nhà sáng tạo’ đó. Bản thân công việc sáng tạo của người nghèo cũng khó lưu truyền cho hậu thế vì nhiều lý do khách quan, và sản phẩm sáng tạo của họ cũng khó cạnh tranh được với những sản phẩm được bảo hộ bởi tầng lớp có tiền.
Điều này không có nghĩa tình trạng này kéo dài mãi mãi, cũng như nó là trật tự hiển nhiên, như nhiều người theo quan điểm cực hữu nghĩ. Sau thời đại Khai Minh và cách mạng công nghiệp, sự xuất hiện của máy in, các chính sách xã hội hóa giáo dục, phong trào văn thơ phổ biến cho bình dân, chế độ công nghiệp hóa mới… đòi hỏi và giúp đại chúng (popular) tiêu thụ nhiều hơn các loại hình văn hóa phẩm. Từ thời kỳ công nghiệp hóa trở về sau, người bình dân có khả năng chủ động tiếp thu và lựa chọn văn hóa phẩm nghệ thuật. Lúc này, số đông dưới cương vị là khách hàng, bắt đầu trở thành một nguồn lực tài chính có khả năng bảo trợ cho các nghệ sĩ/trí thức, tiêu thụ sản phẩm họ làm ra và đồng thời gián tiếp đưa ra những yêu cầu đối với nhóm sáng tạo.
Tuy nhiên, mặc dù số đông bắt đầu tiêu thụ hàng hóa và bảo trợ sản phẩm cho người làm sáng tạo, nhưng nó được tạo ra bởi người trí thức/nghệ sĩ, chứ không phải người tiêu thụ, nên không thể nói “văn hóa phẩm dành cho đại chúng phản ánh mong muốn của đại chúng”. Các bài luận về người nghèo của giới tri thức Việt Nam, vì vậy, vẫn là sản phẩm của giới tri thức, không thể khẳng định chắc chắn rằng nó “nói lên tiếng nói và nguyện vọng của nhân dân”. Như Lĩnh Nam Chích Quái và Việt Điện U Linh vốn vẫn được xem là “kho tàng dân gian”, nhưng không thể xem đó là văn hóa phẩm đại trà dưới thời Lê Quý Đôn, mà nó chỉ bắt đầu phổ thông gần đây, do đó ý thức hệ bên trong đó không hề phản ánh ý thức hệ của người dân nghèo.
Câu chuyện ở đây không phải là người nghèo không sáng tạo hoặc luôn thụ động, nhưng họ bị lịch sử và các yếu tố khách quan quét qua khiến những gì để lại được cho hậu thế không đáng kể. Đi ngược về thời Phục Hưng, chúng ta sẽ thấy nhiều hơn chỉ tranh của Leonardo Da Vinci, nhưng người ta chủ yếu nhớ đến ông nhiều hơn. Tương tự, thời cổ đại cũng có nhiều đồ gốm, hình điêu khắc bình dân, nhưng chúng bị hư tổn cũng như không gợi lên nhiều chú ý bằng một hầm mộ của gia đình quý tộc nào đó. Ngày nay người ta nhớ đến Bill Gates và Microsoft hơn là các nhân viên cộm cán bên trong đó trực tiếp góp công xây dựng các phần mềm. Vì vậy, dù sao đi chăng nữa, dù sự sáng tạo cá nhân luôn trường tồn, nhưng sự công nhận sáng tạo thì lại phụ thuộc vào trật tự xã hội lúc bấy giờ. Cả người giàu lẫn người nghèo đều không nắm giữ quyền tuyệt đối quyết định sản phẩm sáng tạo phổ biến trong xã hội theo đúng như ý của mình, nên sự sai lệch, chuyển dịch, biến đổi và cách mạng luôn diễn ra. Bất kể rằng có thể tồn tại một nhóm giai cấp tinh hoa luôn tôn thờ văn hóa cổ điển, họ không thể ngăn cản việc văn hóa này sẽ dần mất đi bất chấp mọi nỗ lực tài chính.
Cuối cùng, chúng ta có thể trông chờ vào một tương lai nơi các sản phẩm đại chúng thực sự phản ánh mong muốn của đại chúng, thay vì được rót xuống từ trên hoặc bắt chước những quy cách của tầng lớp tinh hoa, dựa trên các phương tiện kỹ thuật mới.
Tóm lại, phần này chỉ ra rằng (1) giàu và nghèo không chỉ là vấn đề về sở hữu tài sản, mà còn về tác động lên thế giới nói chung – người nghèo không được thế giới ghi nhận, bị lịch sử lãng quên, hưởng thụ mọi thứ một cách thụ động và hơn thế, trong khi người giàu luôn gần hơn với tiêu chuẩn về sự tốt đẹp, hay thậm chí chính họ là sự tốt đẹp, vì vậy sự thoải mái của họ nhận được không chỉ nhờ vào việc sở hữu nhiều tiền; và (2) rất có thể những gì chúng ta nghĩ về người nghèo, đọc về người nghèo, không thực sự phản ánh đúng về người nghèo – một cách khách quan – vì trước nay họ không ghi lại, hay giữ quyền chủ động trong việc tuyên truyền về “sự nghèo” mà họ sở hữu. Biết rằng trong thế giới này, cả người giàu lẫn người nghèo đều muốn né tránh cái nghèo, thay vì chấp nhận nó, nên sự hiện diện của cái nghèo cơ bản thường hiện ra một cách thụ động.
Người nghèo thậm chí còn không sở hữu nổi quyền tự định nghĩa về bản thân. “Sự nghèo”, “người nghèo”, “tầng lớp hạ lưu”… tất cả đều là sản phẩm lao động tri thức của những người không nghèo, bao gồm cả những người giàu.
Ít nhất cho đến bây giờ là vậy.
3. Marx & Engels bàn gì về đấu tranh giàu nghèo, và Polanyi đã bàn thêm điều gì.
Đấu tranh giai cấp thường được hiểu như đấu tranh giữa hai giai cấp khác nhau trong người dân. Nói theo giáo trình là giữa vô sản và tư sản. Thực tế quan niệm này là sai lầm. Có tồn tại những giai cấp khác trong xã hội: nông dân, tiểu tư sản, hàng loạt các tầng lớp trung lưu đa dạng. Ta có thể xem đó là các giai cấp trung gian, đứng giữa, hoặc quá độ. Các giai cấp đó luôn luôn ở trong trạng thái quá độ vì sự vận hành của hệ thống kinh tế tư bản luôn luôn khiến cho một số người phá sản và một số người phát tài; một số sẽ nghèo đi và một số sẽ gia nhập hàng ngũ của người giàu.
Tuy vậy, những người chuyển đổi giữa các nhóm này có thể chỉ chiếm số lượng nhỏ. Có một số giai cấp tồn tại từ rất lâu do số lượng thành viên của chúng luôn ổn định và ít biến chuyển. Ví dụ, địa chủ và quý tộc hiện vẫn đang tiếp tục tồn tại ngay trong thời đại tư bản công nghiệp. Mặc dù ta có thể dùng từ “địa chủ” và “quý tộc” nhưng chưa chắc họ giàu hay nghèo; có những người được hưởng phần đất ông bà để lại và chỉ được xếp vào trung lưu. Thậm chí, một số người mang danh hiệu quý tộc vẫn bị xếp vào nhóm nghèo, chứ không hề giàu. Việc chia tách ra làm hai nhóm tư sản – vô sản đã xóa đi sự hiện diện của các nhóm trung gian. Vì bỏ qua nhóm trung gian, các cuộc tranh luận về giai cấp trong xã hội vì vậy cũng nông cạn. Một số người trung lưu không hoàn toàn trung lưu, về bản chất vẫn là một bộ phận của giai cấp tư sản (Marx dùng từ “tiểu tư sản” để chỉ trung lưu), dù không thực sự giống giai cấp tư sản. Tại sao lại nhập nhằng đã ở trung lưu – tiểu tư sản mà về bản chất vẫn là tư sản, hay có thể gọi là nhà tư bản? Bởi vì sở hữu (property) của họ tự thân nó mang tính chất tư bản. Một người có thể có nhà đất ông bà để lại nhưng vẫn bấp bênh trong tình trạng thu nhập thấp, ta vẫn gọi họ là nhà tư bản vì họ có sở hữu vật chất có khả năng trở thành tư liệu sản xuất.
Nhìn chung, bất kể rằng vẫn tồn tại khả năng rất thấp các cá nhân có thể “đổi đời”, sự tồn tại của một số dạng quan hệ tài sản, cũng như một số giai cấp, tương đối cứng cáp và trường tồn với thời gian. Như chế độ sở hữu đất đai đã tồn tại từ thời kỳ phong kiến (địa tô) đến thời tư bản. Chế độ nô lệ đã bị đánh đổ từ lâu nhưng trên thực tế nó vẫn tiếp tục tồn tại cũng tương tự như chế độ địa tô, nhưng hình thức của nó đã được chuyển hóa (transformation). Lấy ví dụ, chế độ nô lệ về lý thuyết đã bị đánh đổ thời nội chiến Nam-Bắc tại Mỹ nhưng thực tế vẫn tồn tại ở Anh cho đến suốt thế kỷ 19. Câu hỏi đặt ra: chế độ đó đã được chuyển hóa thành hình thức nào dưới thời kỳ hiện nay?
Như vậy, ngụ ý của tôi trong phần giải thích trên là xã hội càng phát triển bao nhiêu thì càng được phân công hoặc bị phân chia thành một bội số các giai cấp (multiplicity) và nhiều xếp hạng xã hội khác nhau, chưa tính số tầng lớp luôn nằm ở trong sự quá độ. Do đó sẽ rất sai lầm khi chúng ta hiểu Marx và Engels một cách đơn giản thông qua cuốn “Tuyên ngôn Cộng sản” về giai cấp và đấu tranh giai cấp là cuộc chiến giữa hai phe tách biệt rõ ràng. Hình tượng mà Marx và Engels miêu tả trong cuốn sách đó đã được sơ lược hóa ở một cấp độ cá biệt (individual), nhưng mục đích của nó lại không nhằm dùng individual này để đại diện một cách khái quát. Sau đây là trích đoạn ban đầu của “Tuyên ngôn Cộng sản”:
“… Xã hội tư sản hiện đại, xây dựng trên những tàn tích của xã hội phong kiến, không xóa bỏ những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh xưa kia mà thôi.
Tuy nhiên, tính chất riêng biệt của thời đại chúng, của thời đại giai cấp tư sản, là đã làm đơn giản những đối kháng giai cấp. Xã hội ngày càng chia ra hai phe lớn đối lập nhau, hai giai cấp lớn trực tiếp thù địch nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. …”
[xem Marx, K., & Engels, F. (1956), tr. 20]
Như trên, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản chỉ là hai phe lớn trong xã hội, chứ không phải hai giai cấp duy nhất. Còn tồn tại những giai cấp khác nhìn chung cũng lớn, ví dụ các tầng lớp giai cấp trung lưu. Bản thân giai cấp trung lưu cũng chia thành nhiều phe lớn trong nó. Xác định nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau biến đổi theo thời gian.
Một giai cấp mặc dù chịu ảnh hưởng bởi các mối quan hệ họ tham gia vào và do vậy, chịu ảnh hưởng bởi các mâu thuẫn giai cấp, chẳng hạn một nhân viên với người sếp của mình, nhưng bản thân họ cũng chịu ảnh hưởng bởi những mâu thuẫn bên trong chính suy tư cá nhân. Không ai dám mạnh dạn nói rằng suy nghĩ cá nhân của anh ta trên thực tế cũng là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp, ngay cả khi có thể hành vi của anh ta có tính tương đồng có thể quan sát được. Ví dụ, không thể nói rằng hai người trung lưu thực hành thực dưỡng có những động cơ giống nhau.
Tuy vậy, những gì hiện ra trong “Tuyên Ngôn Cộng sản”, cụ thể là đoạn trích dưới đây, chỉ mới nhắc đến một cá nhân mang theo các mâu thuẫn giai cấp, mà xóa đi sự hiện diện của chính cá nhân ấy:
“… Lịch sử (thành văn) hết thảy mọi xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, trùm phường và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn đối lập nhau, đã tiến hành một cuộc chiến tranh không ngừng, lúc công khai lúc ngấm ngấm, một cuộc chiến tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của cả hai giai cấp đấu tranh với nhau.
Trong những thời đại lịch sử đầu tiên, hầu khắp mọi nơi, chúng ta đều nhận thấy một tổ chức xã hội có đẳng cấp, một cái thang chia thành bậc gồm những địa vị xã hội. Trong La Mã cổ đại, chúng ta thấy có quý tộc, hiệp sĩ, bình dân, nô lệ; trong thời trung cổ, có lãnh chúa phong kiến, chư hầu, thợ cả, thợ bạn, nông nô, và trong mỗi giai cấp ấy, lại có những thứ bậc riêng biệt nữa. …” [xem Marx, K., & Engels, F. (1956), tr. 19-20]
Dĩ nhiên, ở một cấp độ nào đó quan điểm này không hề đúng, vì nó đặt lịch sử lên vai những con người hiện thực, rằng nếu bạn là “nhân viên”, thì bạn sẽ được định danh dựa trên mối quan hệ xã hội bạn tham gia vào, tức một nhân viên. Dừng lại ở mức quan sát một cuộc đấu tranh giữa những con người hiện thực với nhau, thì ta mới chỉ thấy được bề ngoài và chưa nắm được bản tính bên trong của cuộc đấu tranh giai cấp. Lẽ ra, theo như lý thuyết của Marx, đấu tranh giai cấp không phụ thuộc vào con người, mà là sự tự chuyển động của một dạng quan hệ sản xuất, như cách tư bản từ vị thế bị chèn ép trong xã hội phong kiến, đã tích lũy và tự vận động tái trật tự lại thế giới. Nó khác với chuyện một nhân viên mâu thuẫn với sếp của mình. Do vậy, sự mâu thuẫn ở cấp độ cá nhân không nhất thiết hoàn toàn do mâu thuẫn giai cấp, và mâu thuẫn giai cấp không nhất thiết được quyết định bởi các cá nhân.
Engels lúc cuối đời ý thức rất rõ là rất nhiều người đã hiểu sai lý luận của ông và của Marx về chủ nghĩa duy vật lịch sử và nhiều môn đồ của hai ông đã diễn giải học thuyết của họ thành một kiểu quyết định luận kinh tế. Tức là xem kinh tế học, hoặc những lợi ích kinh tế sẽ quy định mọi thứ. Thảm họa này còn được nhìn thấy vào ngày hôm nay bởi những kẻ tự xưng là Marxist hoặc thậm chí phe chống Marx cho rằng giai cấp bị quy định bởi các mối quan hệ với phương tiện sản xuất.
Quyết định luận kinh tế (Economic Determinism) thường xem quan hệ trong sản xuất kinh tế là phương diện chính của liên kết giai cấp. Tôi vẫn xem đó là một phương diện mạnh, nhưng nó không phải là phương diện duy nhất. Vấn đề đối với tiếp cận giai cấp là nằm ở thảm họa của việc áp dụng cái gọi là ‘Logic Biện Chứng’, phương pháp luận mang tiếng ‘hiện đại’ nhưng trên thực tế dựa trên một logic đã bị phê phán là ‘logic hình thức phái Aristotelian’ thời kỳ Trung Cổ, đơn giản hóa sự kiện phức tạp thành công thức chính đề + phản đề = hợp đề. Tức, logic này cho rằng mọi thứ đều đơn giản là A + B = C, khi nói về C, cần xét xem đâu là A, đâu là B và quan hệ “+” ở đây là như thế nào. Logic này “bình dân” và dễ hiểu, như nói rằng “Sự trưởng thành của tôi chịu tác động bởi gen và môi trường”, nhưng gen là gì, và môi trường cụ thể ra sao, chúng tác động như thế nào? Nếu không thể chắc về “A”, “B” và “+”, vậy rốt cuộc việc phát biểu “A + B = C” để làm gì, khi ta mãi không thể hiểu được C do sự thiếu hụt tuyệt đối về A, B và “+”? Sự đơn giản hóa này đã khiến chúng ta tưởng rằng mình suy nghĩ lý tính về hiện thực, nhưng thực tế là tiếp thu sai lệch về hiện thực một cách cố ý.
Do ảnh hưởng bởi logic này, toàn bộ những người yêu Marx và ghét Marx bị nhốt trong “đấu trường sinh tử” giữa 2 “cá nhân trừu tượng” là người tư sản vs người vô sản, cũng như lãnh chúa vs nông nô thời kỳ phong kiến, xem mâu thuẫn giai cấp của họ đã đủ để giúp dự đoán kết cục thế giới về sau cùng.
Engels cũng thừa nhận rằng, do nhu cầu truyền bá tư tưởng duy vật lịch sử, 2 ông đã góp phần tạo nên căn bệnh này. Sau đây là hai trích đoạn thường thấy của Marx & Engels thường dùng để giải thích quyết định luận kinh tế, được những người theo trường phái này dẫn lại:
“… Một người da đen là một người da đen. Chỉ có những quan hệ nhất định, người đó mới trở thành nô lệ. Máy kéo sợi là một máy để kéo sợi. Chỉ có trong những quan hệ nhất định, máy ấy mới trở thành tư bản. Tách khỏi những quan hệ đó, máy kéo sợi chẳng phải là tư bản nữa, cũng như tự nó, vàng không phải là tiền hay đường không phải là giá cả của đường.
Trong sản xuất, người ta không những chỉ tác động vào tự nhiên mà còn tác động lẫn nhau nữa. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ nhất định với nhau, và sự tác động của họ vào tự nhiên, việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó.
Tùy theo tính chất của tư liệu sản xuất mà những quan hệ xã hội đó giữa những người sản xuất với nhau, những điều kiện trong đó họ trao đổi hoạt động với nhau và tham gia vào toàn bộ sự sản xuất, đương nhiên sẽ khác nhau. Do phát minh ra một công cụ mới của chiến tranh tức là khẩu súng khai hỏa, mà toàn bộ tổ chức nội bộ của quân đội đã nhất thiết phải thay đổi, những quan hệ trong đó những cá nhân họp thành một đạo quân và có thể hành động như một đạo quân đã phải được cải tổ, những mối quan hệ giữa các đạo quân với nhau cũng đã thay đổi. …” [xem Marx, K., & Engels, F. (1976), tr. 39-40]
“… Trong sự sản xuất xã hội về đời sống của mình, con người có những quan hệ với nhau, những quan hệ nhất định, tất yếu, độc lập đối với ý muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ sản xuất này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cơ sở thực tại, trên đấy xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, và tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất định. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ. Tới một giai đoạn phát triển nào đó, lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, hay – đây chỉ là đứng về mặt biểu hiện pháp luật của những quan hệ sản xuất đó mà nói, – mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó, từ trước đến nay, các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội. Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng.
Khi nghiên cứu những cuộc đảo lộn ấy, bao giờ người ta cũng phải phân biệt cuộc đảo lộn vật chất – mà người ta có thể lấy sự chính xác của khoa học tự nhiên ra để xét nghiệm – của những điều kiện kinh tế của sản xuất, với những hình thái pháp lý, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật hay triết học, tóm lại, với những hình thái tư tưởng mà người ta dùng để quan niệm cuộc xung đột ấy và đấu tranh để giải quyết cuộc xung đột ấy. Nếu ta không thể phán đoán một người, mà chỉ căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì ta cũng không thể phán đoán một thời đại đảo lộn nào đó mà chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất của xã hội với những quan hệ sản xuất. Một chế độ xã hội không bao giờ mất đi trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà chế độ xã hội đó tạo địa bàn cho phát triển chưa được phát triển: những quan hệ sản xuất mới, – cao hơn, không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong long bản thân xã hội cũ.
Cho nên, nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những vấn đề mà mình có thể giải quyết được: vì, khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân vấn đề chỉ nẩy ra khi những điều kiện vật chất để giải quyết vấn đề đó đã có, hay ít ra cũng đang hình thành. Về đại thể, có thể coi các phương thức sản xuất Á châu, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần dần của hình thái kinh tế xã hội. Quan hệ sản xuất tư sản là hình thức đối kháng cuối cùng của quá trình sản xuất xã hội, đối kháng đây không có nghĩa là đối kháng cá nhân, mà có nghĩa là đối kháng nảy sinh ra từ trong những điều kiện sinh hoạt xã hội của các cá nhân; nhưng những lực lượng sản xuất phát triển trong lòng xã hội tư sản, đồng thời cũng tạo ra những điều kiện vật chất để giải quyết đối kháng ấy. Cho nên với hình thái xã hội đó, thời kỳ tiền sử của xã hội loài người đang kết thúc. …” [xem Marx, K., & Engels, F. (1971), tr. 7-9]
Nhìn chung, hạn chế của nó là bó hẹp mọi thứ trong các mối quan hệ kinh tế. Nghe chừng hợp lý, nhưng khó để nói rằng nó đầy đủ. Mọi thứ vẫn dừng lại ở chỗ “cá nhân + giai cấp (quan hệ kinh tế) = con người cụ thể”. Ý niệm về giai cấp của Marx và Engels cũng có sự khác biệt triệt để với ý niệm giai cấp thường được dùng hiện nay trong xã hội học, lý luận xã hội (social theory). Ở bình diện rộng hơn, bản thân phương pháp duy vật lịch sử cũng chưa hoàn chỉnh.
Nhìn thấy những hạn chế này, Polanyi đã có những bổ sung giá trị. Danh tiếng của Polanyi còn xa lạ với đa số người Việt Nam, dù lừng danh trong lịch sử kinh tế học, là người vừa ủng hộ Chủ nghĩa Xã hội vừa phủ nhận Marx, với quyển sách thời danh ‘The Great Transformation’ vốn hình thành nên từ các ghi chú và giáo án giảng bài của ông, đã góp phần đưa ra một phê phán khác xa so với thầy ông ra là F. Hayek của phái Kinh Tế Áo.
Lập luận chủ yếu của Polanyi nhắm vào cả Chủ nghĩa Marx lẫn Chủ nghĩa Tự do – một bên cho rằng con người là cá nhân (Chủ nghĩa Tự do), bên kia thì cho rằng con người là hợp quần xã hội (Chủ nghĩa Marx). Nhưng cả hai phe đều xem hệ thống kinh tế – tức chủ nghĩa tư bản như là một chủ thể (subject) độc lập với các quy luật vận động của chính nó. Giống cách các game thủ sùng bái nền công nghiệp game tới mức không lý giải được sự lên xuống của các công ty làm game cũng như không chấp nhận rằng một sản phẩm game dở tệ vẫn có thể được quảng bá rộng rãi hoặc mang nội dung trái ngược quan điểm của game thủ. Họ đã bị thuyết phục rằng nền công nghiệp ấy là hoàn hảo và phục vụ mình một cách tuyệt đối, thông qua những tựa game trước đó. Bản thân hệ thống phức tạp như hệ thống kinh tế có các động cơ kỳ quặc (peculiar) ngoài quy luật vận động của nó, cũng như không thể được hiểu hết dựa trên những bằng chứng hệ quả – nền công nghiệp game không thể được hiểu qua các sản phẩm game trong quá khứ. Mọi thứ vẫn xảy ra một cách rất vô lý, không phải A + B = C. Ngay cả Marx cũng xem Chủ Nghĩa Tư Bản là 1 ideal type (loại hình lý tưởng/ý thể), hơn là một khối rubik chắc chắn có tồn tại đã được khám phá trọn vẹn đầy đủ và không thể khác đi được.
Điểm đóng góp chính của Polanyi là bác bỏ các công thức duy kinh tế, và cho rằng các bổn phận xã hội (social obligation), ham muốn thay đổi địa vị, lý tưởng tôn giáo… cũng là động cơ thúc đẩy các hành động của con người, chứ không chỉ đơn thuần là ý hệ và ý thức sai lầm (false consciousness). Một cá nhân đưa ra hành vi nào đó không phải chỉ là một phản ứng đúng hoặc sai đối với mối quan hệ anh ta đang tham gia, mà thực sự ẩn chứa một động lực phong phú. Ngay cả khi sự xác định của ông có thể không đầy đủ, nhưng nó đã mở ra ý tưởng rằng rất khó để xác định được một cách đầy đủ và chính xác con người trong xã hội.
Về cơ bản, Polanyi đưa về một phiên bản mềm mại hơn về chủ nghĩa chủ quan (subjectivism), cho rằng chủ thể cũng có vai trò trong lịch sử và ý muốn của chủ thể cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Đồng thời, ông bác bỏ mạnh mẽ ý kiến cho rằng yếu tố kinh tế giữ vai trò chủ đạo, hay thậm chí triệt để trong việc xây dựng con người và xã hội loài người. Diễn giải một cách bình dân, sẽ là vội vã để kết luận rằng người nghèo có những căn tính cụ thể của người nghèo, do họ bị tác động mạnh bởi việc thiếu hụt tài chính liên tục.
Nếu Karl Polanyi đúng, thì kể cả thị trường tự do cũng không phải là một hình thức thiếu sự kế hoạch hóa từ ý chí con người hoặc bộ máy nhà nước. Tức là hình thức kinh tế gọi là thị trường tự do cũng chỉ là một tên gọi khác của ‘kế hoạch hóa nhà nước’, Polanyi cho rằng kể cả dưới thị trường tự do, chúng ta cũng không thể thoát khỏi các chính sách nhà nước ban hành ra can thiệp vào thị trường, vì bản thân nền kinh tế từ ngày nó được khai sinh đã gắn với các tổ chức điều phối, nên không thể tạo ra nền kinh tế tự do, ngày nào đó vẫn còn là “nền kinh tế”. Điều này tương đối mới mẻ so với các quan điểm bấy giờ của trường phái kinh tế Áo.
Ngoài ra, hệ quả là giai cấp là thứ không thể định nghĩa/xác định được nữa, vì yếu tố kinh tế đã không còn bền vững trong việc xác định giai cấp, giúp nhanh chóng phân chia vô sản, tư sản. Sẽ có thể có một tay nhà giàu nào đó mang tâm lý của kẻ khổ hạnh, hoặc một người bán hàng rong mang suy nghĩ của một tỷ phú. Sự không tài nào xác định giai cấp của một cá nhân của Polanyi cho phép ta suy diễn ra rằng, cơ chế phòng thủ của chủ nghĩa tư bản còn kinh khủng hơn thời đại xưa nhiều. Qua đó mỗi một phong trào xã hội bên trong cấu trúc này, bản thân nó đều tiềm ẩn các tác nhân phản lại sự tiến bộ của phong trào đó, dẫn tới tự vướng mắc. Nữ quyền và những mâu thuẫn nội bộ của chính phong trào này là một ví dụ hay: không thể nhanh chóng nói rằng tất cả mọi phụ nữ đều hướng tới mong muốn độc lập tài chính, từ đó áp đặt mục tiêu lên toàn bộ phụ nữ. Do vậy, phong trào sẽ liên tục nổ ra rồi dần đi đến đoạn tự mâu thuẫn, cho đến khi tự mình gỡ được các nút thắt và chứng minh được sự cần thiết của mình trong lịch sử, hoặc biến mất.
Tóm lại, nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy con người ở chủ nghĩa tư bản bị chèn ép trong xã hội cũ, các mối quan hệ tư bản cũng không được đánh giá cao trong thời phong kiến. Nhưng chúng đã tạo ra cách mạng và vươn lên nắm giữ vai trò chủ đạo, cũng như phủ rộng khắp thế giới ở bình diện rộng như thời điểm hiện tại. Do vậy, ý tưởng về một sự chèn ép khác đang tồn tại trong xã hội tư sản, một ngày nào đó cách mạng và giành thắng lợi, không phải không có căn cứ hay phi logic. Xã hội loài người đã vượt qua quá nhiều hình thái đến mức không còn ai dám thừa nhận rằng mình đang ở hình thái tối ưu và đúng đắn nhất. Đặc biệt, như đã đề cập ở trên, chúng ta về cơ bản là không đủ tư cách để nói rằng trật tự xã hội hiện tại là tốt nhất, vì ta nằm bên trong đó, chứ không phải nằm ngoài nó.
Tuy vậy, những gì đã diễn ra trong lịch sử không nhất thiết sẽ lặp lại trong tương lai. Cũng như xã hội tư bản không dễ gì sụp đổ nhanh chóng giống như phong kiến hay chế độ sở hữu nô lệ. Các Marxist đã chỉ ra sự hiện diện của các giai cấp, cũng như mẫu thuẫn của họ, tiềm ẩn một nguy cơ cách mạng trong tương lai, dù chưa thực sự đầy đủ. Polanyi đã mở ra một khả năng rằng ngay cả khi cách mạng chưa xảy ra, một cá nhân ở vị thế xã hội thấp kém không hẳn sẽ phải chịu đựng toàn bộ diễn biến lịch sử ở vị thế bị động và tiêu cực. Một người công nhân sống cả đời công nhân, và cách mạng vô sản chưa diễn ra, không có nghĩa là anh ta hoàn toàn thụ động, bất lực và bị xem như một nhân vật phụ trong thế giới tại thời điểm đó một cách tuyệt đối. Bất kể rằng đời sống của anh gặp nhiều khó khăn, cũng như các nô lệ trong quá khứ luôn bị chèn ép bởi một cấu trúc cực kỳ chặt chẽ được tạo ra để quản lý họ, vẫn luôn còn một hạt giống nằm sâu bên trong mỗi cá nhân, không hoàn toàn chịu sự chi phối độc nhất của quan hệ kinh tế hay cấu trúc chính trị.
Liệu thế giới có khả năng tiếp tục phát triển? Câu trả lời là có. Điều khó hơn là tìm hiểu xem chúng sẽ đi theo hướng nào.
——————————————————–
References/Tài Liệu Tham Khảo:
Marx, K., & Engels, F. (1949), Tuyên Ngôn Cộng Sản (bản lược dịch của Hồ Chí Minh) (NXB Sự Thật).
—————————- (1956), Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản (bản chính thức) (NXB Sự Thật).
—————————- (1971), Góp Phần Phê Phán Chính Trị Kinh Tế Học (NXB Sự Thật).
—————————- (1976), Lao Động Làm Thuê Và Tư Bản (NXB Sự Thật).
—————————- (1986), Hệ Tư
Sperber, J. (2014), Karl Marx: A Nineteenth-Century Life (Liveright).
Wheen, F. (2001), Karl Marx: A Life (W. W. Norton & Company).